CÔNG TY CỔ PHẦN QUỐC TẾ DƯỢC PHẨM HADU

5 SAI LẦM CẦN TRÁNH TRONG CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG TRẺ NHỎ
09

Th 09

5 SAI LẦM CẦN TRÁNH TRONG CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG TRẺ NHỎ

  • admin
  • 0 bình luận

Để trẻ phát triển toàn diện phải có chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng khoa học, tránh những sai lầm có thể gặp phải làm hạn chế sự phát triển thể chất, vận động và trí thông minh của trẻ. Dưới đây là 5 sai lầm Hadu đã liệt kê trong chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ mà cha mẹ nên tránh. 1.KHÔNG CHO CON BÚ SỮA MẸ Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ. Trong sữa mẹ có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỷ lệ cân đối phù hợp với hệ tiêu hóa và hấp thu của trẻ. Sữa mẹ còn có kháng thể giúp trẻ tăng cường sức đề kháng chống lại các bệnh nhiễm trùng. Việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ thiếu dinh dưỡng (suy dinh dưỡng) hoặc thừa dinh dưỡng (thừa cân/ béo phì), các bệnh mãn tính không lây khi trưởng thành, đặc biệt là bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường… Mặc dù sữa mẹ có nhiều lợi ích cho trẻ, nhưng không phải bà mẹ nào cũng biết và thực hiện. Các yếu tố ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu thường là: mẹ phải đi làm sớm, bà mẹ nghĩ rằng sữa của mình không tốt bằng sữa công thức, chuộng sữa ngoại, muốn giữ gìn vóc dáng… Trẻ phải uống sữa ngoài, ăn dặm trước 6 tháng, vì người mẹ phải đi làm, nên trẻ không có điều kiện được bú sữa mẹ hoàn toàn. Tình trạng quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ (thậm chí cả sữa non) đã tác động tiêu cực khiến một số bà mẹ không tin tưởng vào giá trị sữa của mình, hoặc quá chuộng sữa ngoại.  2.ĂN BỔ SUNG QUÁ SỚM HOẶC QUÁ MUỘN Ăn bổ sung là hình thức bổ sung thêm thức ăn khác cho trẻ ngoài sữa mẹ. Theo Khuyến nghị của Tổ Chức Y Tế thế giới, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam, ăn dặm) là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi (180 ngày). Do nhu cầu của trẻ tăng cao, sữa mẹ không đáp ứng đủ vì vậy cần bổ sung thêm thức ăn cho trẻ. Hiện nay vẫn nhiều chị em quan niệm rằng cho trẻ ăn bổ sung sớm, trẻ sẽ cứng cáp hơn và không bị đói, vì vậy trẻ được ăn bổ sung từ tháng thứ 4,5 thậm chí không ít trẻ được ăn bổ sung từ tháng tuổi thứ 3. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc tận dụng nguồn sữa mẹ, trẻ dễ bị rối loạn tiêu hóa dẫn đến suy dinh dưỡng. Đặc biệt một số bà mẹ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn cho trẻ ăn cơm nhai, cơm mớm rất mất vệ sinh, thậm chí còn là nguồn lây lan bệnh cho bé. Theo các nhà dinh dưỡng, trẻ bổ sung sớm sẽ làm tăng gánh nặng cho cho bộ máy tiêu hóa, ảnh hưởng đến tiêu hóa, sức khỏe và sự phát triển của bé. Thức ăn bổ sung thường khó tiêu, nên bé sẽ biếng ăn. Không đủ chất dinh dưỡng, bé sẽ chậm tăng cân và dễ bị suy dinh dưỡng. Đối với trẻ em thì chế độ ăn được tuần tự từ các thức ăn lỏng như sữa, chuyển sang bột loãng, bột đặc, rồi cháo, cơm. Ngược lại, khi cho trẻ ăn bổ sung muộn, sữa mẹ không đủ đáp ứng nhu cầu thì trẻ sẽ chậm tăng cân. Vì sữa mẹ sau 6 tháng không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng lên của trẻ, nên cần phải cho trẻ ăn thêm thức ăn bổ sung. Ngoài việc bú sữa mẹ, trẻ cần được ăn thêm 1-2 bữa bột trong ngày. 3.CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG KHI TRẺ BỊ ỐM Chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ trước, trong và sau ốm rất quan trọng vì nó sẽ làm cho bệnh mau khỏi, mau phục hồi sức khỏe và tăng cường sức đề kháng đối với sức khỏe bệnh tật. Khi trẻ bị ốm, sốt, tiêu chảy… thì nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cần nhiều hơn bình thường, trong khi đó một số bà mẹ lại có quan điểm sai lầm bắt trẻ phải ăn kiêng khem như: không cho trẻ ăn dầu mỡ, chỉ ăn bột ngọt (đường), không cho trẻ bú, không cho trẻ ăn rau xanh… sợ trẻ đi ngoài nhiều hơn. Trẻ bị sốt mất nước, nhưng không bù nước cho trẻ và uống nước oresol, bắt trẻ ăn kiêng… Sau khi khỏi bệnh không cho trẻ ăn nhiều hơn để nhanh chóng phục hồi sức khỏe. Chế độ ăn uống kiêng khem, bữa ăn của trẻ mất cân đối không đủ chất, chính vì thế trẻ dễ bị suy dinh dưỡng. 4.CHO TRẺ ĂN QUÁ NHIỀU CHẤT BỔ DƯỠNG Nhu cầu chất đạm của trẻ từ 6-11 tháng tuổi là 2-2,5 g/kg/24h, nhu cầu trung bình là 14-17 g/24h (tương đương 20-30g thịt/ bữa). Lượng dầu hoặc mỡ từ 1-2 thìa cà phê/ bữa ăn. Trong năm đầu nhu cầu dinh dưỡng của trẻ rất cao cần thiết cho sự phát triển, trong khi đó dạ dày của trẻ thì nhỏ, hệ tiêu hóa lại còn rất non yếu, nếu nuôi dưỡng không tốt sẽ dễ bị tiêu chảy, kéo theo suy dinh dưỡng, còi xương. Vì vậy các bà mẹ phải hết sức chú ý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong khi chọn thực phẩm, trong bảo quản/ chế biến… đồng thời cho trẻ ăn đúng nhu cầu cần thiết, tránh ăn quá nhiều chất bổ dưỡng. Bữa ăn bổ sung cho trẻ phải đảm bảo đủ chất dinh dưỡng thiết yếu: nhóm đường bột, nhóm cung cấp chất đạm, chất béo, vitamin và chất khoáng. Cho ăn đủ nhu cầu, cân đối các chất dinh dưỡng giúp cho trẻ phát triển tốt, ngược lại trẻ sẽ bị nguy cơ suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh dưỡng thấp còi. Nếu khẩu phần ăn quá nhiều chất đạm, khiến hệ tiêu hóa non nớt phải làm việc mệt mỏi, dễ rối loạn tiêu hóa, gây phân sống, tiêu chảy… Một sai lầm khác cũng hay gặp là một số bà mẹ vẫn cho rằng nước thịt, nước hầm xương là đủ bổ, không cần cho trẻ ăn cái khác… trong khi các loại nước hầm này hầu như không chứa đạm. Các thức ăn cung cấp chất đạm vẫn còn được sử dụng đơn điệu. Nhiều bà mẹ không cho con ăn cá, cua, tôm, trứng… sợ trẻ bị dị ứng với thức ăn, sợ trẻ sợ tanh… dễ gây chán ăn, đồng thời tạo thói quen ăn uống thiên lệch, dễ ảnh hưởng về sau. 5.NHỎ KHÔNG ĐƯỢC NUÔI DƯỠNG, CHĂM SÓC LỚN LÊN SẼ BÙ Do tác động của lối sống hiện đại, các bậc cha mẹ thường không có điều kiện chăm sóc cho con từ bé, vì họ quan niệm rằng sau này khi con lớn lên, họ có thể chăm sóc “bù”. Đây là một quan điểm hết sức sai lầm, vẫn còn tồn tại ở không ít phụ huynh, nhất là những gia đình trẻ. Thực tế khoa học đã chứng minh suy dinh dưỡng trong giai đoạn phát triển quan trọng của con người và trong quá trình mang thai và trong 2 năm đầu đời của trẻ đã lập trình cho mỗi cá nhân trong việc điều tiết tăng trưởng và ảnh hưởng đến sự phát triển của não bộ. Do vậy suy dinh dưỡng đầu đời có thể dẫn đến những tổn thương không phục hồi được đối với sự phát triển của não, hệ miễn dịch và tăng trưởng thể lực. Trẻ có não kém phát triển những năm đầu đời sẽ có nguy cơ về các bệnh của hệ thần kinh sau này: học tập kém, bỏ học sớm hơn, kỹ năng làm việc kém… Giai đoạn 1000 ngày đầu đời chính là cửa sổ cơ hội để phòng ngừa các bệnh mãn tính không lây lan có liên quan đến dinh dưỡng như: thừa cân béo phì, rối loạn chuyển hóa, các bệnh tim mạch, huyết áp, loãng xương. Vì vậy, việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ từ khi còn trong bào thai đến khi 2 tuổi là rất quan trọng, nó quyết định đến chiều cao, cân nặng, bệnh tật và não bộ của trẻ khi trưởng thành. Nếu giai đoạn 1000 ngày vàng không được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì dù chúng ta có nỗ lực đến đâu cũng không thể bù đắp được vì hầu như chuyện đã được an bài. Vì vậy, việc hỗ trợ dinh dưỡng ở giai đoạn này đạt kết quả tối ưu so với bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời của trẻ.  

CÁCH CHỌN SỮA VÀ CHẾ PHẨM TỪ SỮA CHO PHỤ NỮ MANG THAI
08

Th 09

CÁCH CHỌN SỮA VÀ CHẾ PHẨM TỪ SỮA CHO PHỤ NỮ MANG THAI

  • admin
  • 0 bình luận

Sữa và các chế phẩm từ sữa không chỉ là nguồn cung cấp canxi quan trọng mà còn là những thực phẩm có đầy đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu và ở tỷ lệ cân đối tốt cho sức khỏe mẹ và bé. Sử dụng sữa và chế phẩm sữa hợp lý trong thời kỳ mang thai và cho con bú giúp cải thiện khẩu phần canxi, giúp hấp thu và chuyển hóa canxi tốt hơn. Vậy cách lựa chọn sữa và các chế phẩm từ sữa như thế nào là phù hợp? Hãy cùng Hadu tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé! 1.VAI TRÒ CỦA DINH DƯỠNG ĐỐI VỚI THAI PHỤ VÀ TRẺ NHỎ Chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của mẹ và sự phát triển của thai nhi. Dinh dưỡng tốt, không chỉ giúp người mẹ đáp ứng đầy đủ các hoạt động, sinh hoạt hằng ngày của cơ thể, mà còn đáp ứng những thay đổi sinh lý về chuyển hóa, tích lũy mỡ, tăng cân, tăng khối lượng tử cung do mang thai. Dinh dưỡng hợp lý khi mang thai còn giúp người mẹ có đủ dự trữ cần thiết để có đủ sữa sau sinh. Vì vậy, chế độ dinh dưỡng, cách ăn uống của người phụ nữ khi mang thai đặc biệt quan trọng, mỗi người phụ nữ cần quan tâm tới khẩu phần ăn của mình lúc mang thai một cách khoa học, đạt được mức tăng cân phù hợp với tình trạng dinh dưỡng trước khi mang thai. Những người mẹ bị thiếu năng lượng thường diễn ra trước khi mang thai và chế độ dinh dưỡng kém trong thời gian mang thai dễ sinh ra những đứa trẻ nhẹ cân, thiếu dinh dưỡng. 2.NGUYÊN TẮC CHỌN SỮA VÀ SẢN PHẨM TỪ SỮA CHO MẸ BẦU Nguyên tắc chung Xem kỹ nhãn mác về hạn sử dụng, thành phần dinh dưỡng, đặc biệt là lượng chất đạm, canxi và chất béo, lượng đường bổ sung… để lựa chọn được sản phẩm phù hợp. Nên chọn lựa sữa bổ sung công thức dựa trên các công thức bổ sung vi chất cho phụ nữ có thai và bà mẹ cho con bú. Sữa bổ sung vi chất cho phụ nữ có thai và bà mẹ cho con bú: là sữa có công thức dinh dưỡng được thiết kế khoa học đáp ứng nhu cầu tăng cao trong suốt thời kỳ mang thai và cho con bú. Nên chọn sữa và sữa chua ít đường hoặc không đường. Chọn các sản phẩm đã được cấp phép bởi cơ quan quản lý có thẩm quyền. Không nên ăn sữa chua vào lúc đói dễ bị cồn ruột và các vi khuẩn có ích trong sữa chua dễ bị chết bởi acid cao trong dạ dày làm giảm tác dụng của vi khuẩn có lợi. Sữa chua và sữa thanh trùng cần được bảo quản trong ngăn mát của tủ lạnh. Lưu ý khi lựa chọn sữa Phụ nữ có thai và mẹ cho con bú có thể lựa chọn sữa tươi hoặc sữa bột dành cho phụ nữ có thai hoặc mẹ cho con bú. Trong giai đoạn này, nhu cầu các vi chất dinh dưỡng đều tăng cao hơn bình thường vì vậy khi lựa chọn sữa cần chú ý hàm lượng canxi và các vi chất dinh dưỡng bổ sung, có thể lựa chọn những sản phẩm đã được chứng minh lâm sàng. Đối với những người tăng cân quá nhiều hoặc rối loạn đường máu cần lưu ý về hàm lượng đường và chất béo trong sữa. Với những người không dung nạp đường lactose có thể tập uống sữa với lượng tăng dần hoặc thay thế bằng sữa chua hoặc phô mai. Lưu ý khi lựa chọn sữa chua cho phụ nữ mang thai và bà mẹ cho con bú Sữa chua là một thực phẩm rất tốt trong chế độ ăn hằng ngày của phụ nữ mang thai và bà mẹ cho con bú. Đặc biệt trong thời kỳ có thai, bà mẹ có thể bị nghén gây chán ăn, sữa chua có các chủng vi khuẩn có lợi cho đường ruột, giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn và ăn ngon hơn, đặc biệt sữa chua phù hợp với những người không dung nạp đường lactose. Lưu ý khi lựa chọn phô mai cho phụ nữ mang thai và cho con bú Phô mai có đậm độ chất dinh dưỡng cao trong 1 thể tích nhỏ, điều này rất có lợi đối với những bà mẹ bị nghén khi mang thai. Bà mẹ có thể ăn phô mai trực tiếp, hoặc dùng phô mai để chế biến nhiều món ăn khác nhau để thay đổi khẩu vị và chất lượng món ăn.  

QUAN NIỆM SAI LẦM LÀM HẠN CHẾ PHÁT TRIỂN CHIỀU CAO Ở TRẺ
08

Th 09

QUAN NIỆM SAI LẦM LÀM HẠN CHẾ PHÁT TRIỂN CHIỀU CAO Ở TRẺ

  • admin
  • 0 bình luận

1000 ngày đầu đời là giai đoạn vàng giúp trẻ phát triển chiều cao tốt và nhanh nhất (từ trong bào thai và trong 2 năm đầu đời). Sau này còn một giai đoạn nữa cho phát triển chiều cao là giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì. Vậy một số quan điểm sai lầm nào của cha mẹ làm hạn chế phát triển chiều cao ở trẻ? Hãy cùng Hadu tìm hiểu qua bài viết dưới đây để tránh nhé các cha mẹ! 1.GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CHIỀU CAO NHIỀU NHẤT Chỉ số phát triển chiều cao hiện nay được các nhà dinh dưỡng đánh giá là một chỉ tiêu phát triển quan trọng bậc nhất ở trẻ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở Việt Nam hiện đang ở mức cao nhất trong các loại suy dinh dưỡng sau rất nhiều nỗ lực của ngành y tế và xã hội trong suốt hơn bốn thập kỷ qua. Bởi vì đây là một vấn đề cần được quan tâm một cách tổng thể, mới có thể dần dần giải quyết. Vậy giai đoạn nào là giai đoạn quan trọng cho phát triển chiều cao của con người: câu trả lời hiện nay là giai đoạn 1000 ngày đầu đời là giai đoạn vàng giúp trẻ phát triển chiều cao tốt và nhanh nhất (từ trong bào thai và hai năm đầu đời) và sau này còn 1 giai đoạn cuối cho phát triển chiều cao là giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì. 2.NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ PHÁT TRIỂN CHIỀU CAO Ở TRẺ SUY NGHĨ RẰNG GEN DI TRUYỀN LÀ TẤT CẢ Theo các nghiên cứu trên thế giới thì chiều cao lúc trưởng thành là kết quả của sự kết hợp của các yếu tố chính: yếu tố gen di truyền, giới tính, chế độ dinh dưỡng, sức khỏe, hoạt động thể chất, giấc ngủ. Trong đó, đóng góp của yếu tố gen trong việc quyết định chiều cao sau này của một con người chỉ chiếm khoảng 25% còn lại là các yếu tố kể trên. Nói như vậy không có nghĩa là nếu trẻ mang gen thấp mà đảm bảo được tất cả các yếu tố còn lại thì trẻ sẽ đạt được chiều cao chuẩn hoặc trên trung bình mà chỉ có giá trị rằng nếu trẻ có gen thấp nhưng được tạo mọi điều kiện phát triển thì sẽ phát huy được tối đa khả năng bộ gen của trẻ đó.  Do vậy không nên có quan niệm sai lầm rằng cha mẹ thấp thì đương nhiên con thấp: vì có thể cha mẹ, ông bà có gen chiều cao bình thường nhưng do điều kiện sống trước đây thiếu thốn nên chưa bộc lộ được gen này, khi thế hệ con cháu được nuôi dưỡng tốt sẽ cải thiện tốt chiều cao. Tương tự như vậy nếu trẻ có gen cao mà không có được các điều kiện chăm sóc kể trên thì cũng sẽ không phát huy được ưu điểm bộ gen và trẻ đó vẫn có khả năng thấp dưới trung bình nhiều. KHÔNG TẠO ĐIỀU KIỆN CHO BÀO THAI PHÁT TRIỂN TỐT Chưa có ý thức chăm sóc bà mẹ mang thai trong chế độ ăn, nghỉ ngơi, sinh hoạt. Với những bà nghén nhiều, kém lên cân không đạt 12kg/ 9 tháng mang thai, cần được bổ sung sữa và uống bổ sung đủ các vitamin và khoáng chất như B, C, canxi, sắt, kẽm, A. KHÔNG ĐẢM BẢO ĐỦ SỮA MẸ CHO CON TRONG 6 THÁNG ĐẦU ĐỜI Nguyên nhân là do coi trọng sữa công thức, trong khi đó sữa mẹ của những người mẹ khỏe mạnh, ăn tốt là nguồn dinh dưỡng thích hợp cho trẻ. Thứ hai là do mẹ ăn uống kiêng khem nhiều gây thiếu chất. Mẹ cho con bú nên uống thêm sữa tối thiểu 400ml/ ngày và ăn đủ chất (thịt các loại, trứng, tôm, cua, rau củ…) chỉ kiêng những loại gia vị chua cay, tỏi và những thực phẩm lên men có thể gây rối loạn tiêu hóa. Và mẹ cần được gia đình hỗ trợ để ngủ đủ, tinh thần thoải mái mới có nhiều sữa. CHẾ ĐỘ ĂN DẶM CHƯA HỢP LÝ VỀ SỐ LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG Điều này khiến trẻ không có đủ năng lượng để phát triển và đặc biệt thiếu hụt các vi chất quan trọng cho phát triển chiều cao là vitamin A, canxi (và vitamin D), sắt và kẽm. -Thời gian ăn dặm quá sớm: một số gia đình cho trẻ ăn dặm 2-3 tháng là quá sớm, khuyến nghị là tròn 6 tháng. Trường hợp đặc biệt trẻ không dung nạp sữa tốt và bị suy dinh dưỡng có thể ăn sớm hơn nhưng cũng phải tròn 4 tháng tuổi, nếu ăn dặm trước thời gian đó thì trẻ không đủ men tiêu hóa sẽ có thể bị rối loạn tiêu hóa kéo dài và suy dinh dưỡng nặng. -Thời gian ăn dặm quá muộn: sau 6 tháng, chỉ bú mẹ vì trẻ lười ăn bột, cháo: gây thiếu năng lượng và vi chất cần cho sự phát triển bình thường của trẻ vì giai đoạn này sữa mẹ không cung cấp đủ dưỡng chất. -Sử dụng nước hầm xương và bột, ngoài ra không cho ăn thêm thịt, trứng, tôm, cá. Về điều này, gia đình có thể pha thêm nước hầm xương vào đồ ăn như bột, cháo, canh của trẻ nếu trẻ thấy ngon miệng hơn, tuy nhiên, lưu ý là không có giá trị dinh dưỡng trong nước hầm xương vì không có canxi, đạm ở đây. -Xay nhuyễn, hầm thịt rồi rây, lọc chỉ còn rất ít cái hoặc ninh nước nấu bột. Như vậy các chất bổ như bột, đạm bị giữ lại trong bã bị bỏ đi, khiến hiệu quả dinh dưỡng không cao. Cần thay đổi là xay nghiền nhỏ cả thịt, cá hoặc đánh trứng tra vào quấy bột hòa lẫn nước để trẻ có thể ăn đủ cả nước lẫn cái mới đầy đủ dinh dưỡng. -Không tăng cường số bữa ăn cho trẻ mặc dù mỗi bữa ăn trẻ chỉ ăn rất ít hoặc bỏ ăn. BỔ SUNG QUÁ NHIỀU CANXI CHO TRẺ Nhiều gia đình chỉ quan tâm đến chiều cao của trẻ nên chỉ nghĩ đơn giản là chỉ cần bổ sung nhiều canxi, thậm chí ở dạng thuốc. Khi phát hiện thấy bé có một số biểu hiện như táo bón, mệt mỏi, buồn nôn, biếng ăn hoặc đau xương, đau cơ, đi tiểu nhiều, các mẹ nên đưa con đi khám xem lượng canxi huyết của bé có quá cao hay không để có cách điều trị kịp thời. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, nếu cơ thể thừa canxi, trẻ có thể bị lùn. Điều này được lý giải là do hàm lượng canxi trong máu tăng cao có thể đi vào xương nhiều hơn, làm cốt hóa các đầu xương sớm, dẫn đến hạn chế sự phát triển xương, ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình phát triển chiều cao. ĐỂ TRẺ BỊ NHIỄM KHUẨN (ĐƯỜNG HÔ HẤP, TIÊU HÓA) TÁI PHÁT NHIỀU LẦN (1-2 LẦN/ THÁNG) Các nghiên cứu cho thấy đây là nguyên nhân hàng đầu làm hạn chế phát triển chiều cao. Do các trẻ này thường biếng ăn, dùng nhiều kháng sinh ảnh hưởng đến phát triển sụn xương… KHÔNG TẠO ĐIỀU KIỆN CHO TRẺ VẬN ĐỘNG VÀ CHƠI THỂ THAO Lúc bé bế ẵm quá nhiều, khi trẻ lớn lên thì cho trẻ chơi máy tính nhiều, khiến trẻ không có lối sống năng động: không thúc đẩy quá trình trao đổi chất và chuyển hóa, giúp cơ thể phát triển tốt. Cần tăng cường vận động: khuyến khích trẻ tham gia việc nhà, chơi các môn thể thao ưa thích (nhất là những môn có tác động kéo dãn như bóng rổ, xà đơn, bơi lội, chạy nhảy, xe đạp…) hàng ngày (20-60’) tùy thể trạng của trẻ, việc này giúp tăng tiết dịch ổ khớp dẫn đến tăng hormone tăng trưởng. Môi trường sống: môi trường sống tự nhiên tốt, đủ ánh sáng, không gian đủ rộng cho sự vui chơi vận động, sẽ tạo điều kiện kích thích cho sự phát triển. TÂM THẦN KINH Tinh thần ổn định, phấn chấn, giấc ngủ sâu sẽ giúp cơ thể tiết kiệm năng lượng. Đặc biệt trong giấc ngủ đêm tuyến yên tiết ra hormone GH, hormone này sẽ kích thích sự tăng trưởng của trẻ. Nhưng thực tế các trẻ thành phố thường ngủ rất khuya do mải chơi hoặc lo học quá nhiều dẫn đến ảnh hưởng phát triển chiều cao ở trẻ. Cần cho trẻ ngủ sớm trước 10 giờ tối và giờ ngủ đều đặn, tránh giờ ngủ thất thường.  

VAI TRÒ CỦA VITAMIN D VỚI CƠ THỂ
07

Th 09

VAI TRÒ CỦA VITAMIN D VỚI CƠ THỂ

  • admin
  • 0 bình luận

Việc bổ sung đầy đủ dưỡng chất cần thiết nhằm duy trì và nâng cao sức khỏe của cơ thể đã và đang được nhiều người quan tâm. Bài viết sau đây Hadu sẽ giúp các bạn hiểu hơn về vai trò và tầm quan trọng của vitamin D đối với sức khỏe của cơ thể. 1.VITAMIN D LÀ GÌ? Vitamin D gồm một nhóm seco-sterol tan trong chất béo, được tìm thấy rất ít trong thức ăn tự nhiên. Vitamin D được quang hợp trong da của động vật có xương sống nhờ tác động bức xạ B của tia tử ngoại. Vitamin D có nhiều cấu trúc, tuy nhiên có 2 loại cấu trúc chính là vitamin D2 và D3. Vitamin D2 có nguồn gốc từ men nấm và sterol thực vật, ergosterol, vitamin D3 được tổng hợp từ 7-dehydrocholesterol ở da. Xét theo góc độ dinh dưỡng, 2 loại này có giá trị sinh lý tương tự nhau. 2.CÔNG DỤNG CỦA VITAMIN D Đây được xem là một trong những chất không thể thiếu trong quá trình phát triển cơ thể. Khi cơ thể thiếu hụt sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe. Thiếu hụt vitamin D làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường Type 1, đau cơ, xương hay dẫn đến ung thư tuyến tiền liệt, vú, đại tràng… Vai trò của vitamin D đối với cơ thể Một số công dụng của vitamin D đối với cơ thể: ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN CẤU TRÚC XƯƠNG Chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với cơ thể, nhất là đối với trẻ nhỏ ở giai đoạn phát triển. Công dụng hình thành và tạo nên cấu trúc xương, răng thông qua việc phân phối, điều chỉnh, hấp thụ lượng canxi, phospho. Sự kết hợp giữa vitamin D và hormone của tuyến cận giáp PTH giúp gia tăng sự lắng đọng canxi trong xương. Qua đó có thể thấy, vitamin D là điều kiện cần thiết giúp canxi và phospho được gắn vào các tế bào xương, cân bằng nội mô giữa các hợp chất trên. PHÂN CHIA TẾ BÀO Thực tế cho thấy, nồng độ dưỡng chất trên giúp quá trình phân chia tế bào, bài tiết, chuyển hóa hormone (bao gồm hormone PTH và insulin) diễn ra hiệu quả, thuận lợi. Đặc biệt, duy trì ổn định nồng độ vitamin có trong cơ thể sẽ làm tăng khả năng biệt hóa của một số nhóm ung thư liên quan đến da, xương và vú. MỘT SỐ CÔNG DỤNG KHÁC Tăng cường khả năng miễn dịch. Hạn chế các cơn đau nửa đầu, tình trạng viêm xoang. Phòng ngừa, ngăn chặn các yếu tố làm tổn thương thị lực. Cải thiện khả năng cân bằng với người lớn tuổi. Điều trị vảy nến, loãng xương. 3.ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA NẾU LẠM DỤNG VITAMIN D TÁC DỤNG PHỤ Cung cấp lượng chất vitamin D với hàm lượng phù hợp theo nhu cầu của cơ thể sẽ góp phần nâng cao sức khỏe, an toàn với người sử dụng. Tuy nhiên, lạm dụng vượt quá mức cho phép sẽ gây nên một số tác dụng phụ không mong muốn như: Buồn nôn và nôn. Chán ăn, ăn không ngon. Rối loạn tiêu hóa, táo bón. Xuất hiện tình trạng giảm cân. Một số đối tượng trở nên lú lẫn, mệt mỏi. Gây nên các tổn thương về tim mạch, thận. TƯƠNG TÁC THUỐC Quá trình sử dụng nếu có kết hợp với một số nhóm thuốc khác cần lưu ý về liều lượng, tham khảo ý kiến bác sĩ, tránh gây hậu quả đáng tiếc.  Sử dụng với chất kết dính phốt phát có chứa nhôm sẽ làm gia tăng mức độ nhôm trong cơ thể, gây hại cho bệnh nhân suy thận. Nhóm thuốc có tác dụng chống co giật như: Phenobarbital, Phenytoin,... gây phân hủy và giảm khả năng hấp thụ các loại vitamin A, D,... Hàm lượng Calcipotriene có trong thuốc trị vẩy nến nếu sử dụng kết hợp với các loại vitamin E, D sẽ làm gia tăng lượng canxi trong máu. Tuyệt đối không sử dụng vitamin gốc D liều cao với thuốc điều trị bệnh tim có chứa Digoxin. Sự kết hợp trên làm tăng lượng canxi trong máu, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến tử vong.  

Đối tác chiến lược

Hotline 1900 633 486
popup

Số lượng:

Tổng tiền: