Lâu nay chất tạo ngọt nhân tạo được coi là một giải pháp cho những người thích ăn ngọt và không muốn lượng calo dư thừa từ đường tinh luyện hoặc các chất làm ngọt tự nhiên. Vậy chất làm ngọt nhân tạo là gì, ưu và nhược điểm ra sao? Hãy cùng Hadu tìm hiểu qua bài viết dưới đây!
1.CHẤT TẠO NGỌT TỔNG HỢP LÀ GÌ?
Chất tạo ngọt tổng hợp (hay còn gọi là chất tạo ngọt nhân tạo, đường hóa học) là chất không có trong tự nhiên, chủ yếu được tổng hợp từ các chất hữu cơ, vô cơ trong nhà máy: thường có vị ngọt rất cao so với đường kính saccharose (đường tự nhiên khai thác từ mía, củ cải đường) không chuyển hóa được, do đó không có giá trị dinh dưỡng, thường có mục đích sử dụng là tạo vị ngọt trong điều trị cho những người bệnh thừa cân hay đái tháo đường.
Đến nay cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã phê duyệt 6 loại chất tạo ngọt nhân tạo (saccharin, acesulfame K, aspartame, sucralose, advantame, neotame) và hai loại chất tạo ngọt tự nhiên (steviol glycosides, SGFE) để sử dụng trong thực phẩm. Các loại được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm với giới hạn tối đa và quy trình rõ ràng. Aspartame đã có mặt trong hơn 6.000 loại thực phẩm trên toàn thế giới và khoảng 5.500 tấn được tiêu thụ mỗi năm chỉ riêng tại Mỹ.
Tuy nhiên trên thị trường hiện nay vẫn đang tồn tại rất nhiều chất tạo ngọt có gốc hóa học là sodium cyclamate - một loại đường hóa học không hề có trong danh mục các loại phụ gia thực phẩm đã được Bộ Y Tế cho phép lưu hành tại Việt Nam, vì loại đường hóa học này có thể gây ra ung thư gan, ung thư phổi, dị dạng bào thai, ảnh hưởng đến các yếu tố di truyền…
2.CHẤT TẠO NGỌT TỔNG HỢP CÓ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG KHÔNG?
Các chất tạo ngọt tổng hợp hầu như không có giá trị dinh dưỡng, không chứa calo là do không phân hủy trong quá trình tiêu hóa thành các loại đường tự nhiên như glucose, fructose và galactose, vốn được sử dụng làm năng lượng chuyển hóa thành chất béo.
Chất tạo ngọt không dinh dưỡng có các sản phẩm phụ khác nhau không được chuyển đổi thành calo. Ví dụ aspartame trải qua một quá trình trao đổi chất khác nhau mà không tạo thành đường đơn giản để cơ thể có thể sử dụng. Những loại khác như saccharin và sucralose hoàn toàn không bị phá vỡ mà thay vào đó được hấp thụ trực tiếp vào máu và bài tiết qua nước tiểu.
Về lý thuyết, những chất tạo ngọt này có vẻ là lựa chọn tốt hơn để thay thế đường cho bệnh nhân đái tháo đường do bản chất thực sự không cung cấp đường.
3.TÁC HẠI CỦA CHẤT TẠO NGỌT NHÂN TẠO
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy chất tạo ngọt nhân tạo có thể thay đổi các quá trình trao đổi chất tại ruột. Chẳng hạn, saccharin được phát hiện làm thay đổi loại và chức năng của hệ lợi khuẩn trong đường ruột, aspartame làm giảm hoạt động của một loại enzyme đường ruột.
Nếu thường xuyên ăn nhiều đường hóa học, có thể gây suy giảm chức năng tiêu hóa, kích thích niêm mạc đường ruột, gây khó khăn cho sự hấp thu chất dinh dưỡng, thậm chí có thể ảnh hưởng tới chức năng thận.
Nguy hiểm hơn, nếu sử dụng đường hóa học nhiều có thể kìm hãm sự phát triển của trẻ, sinh ra nhiều bệnh tật hay suy dinh dưỡng, có thể khiến trí não phát triển không bình thường… Ngoài ra, chức năng thải độc của gan, thận ở trẻ đều bị kém đi nên các hoạt chất này sẽ tích lũy lại. Ở trẻ em đường hóa học có thể cản trở khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng khiến trẻ chậm lớn, biếng ăn.
Một số chất tạo ngọt có thể tác động não bộ làm thay đổi nhận thức vị giác và mất cân bằng trong sản xuất nội tiết tố. Ví dụ: Sucralose làm giảm hoạt động của amygdala, một phần của não liên quan đến nhận thức vị giác. Aspartame làm thay đổi việc sản xuất nội tiết tố tự nhiên trong cơ thể, làm tăng cả cảm giác ngon miệng và thèm chất ngọt.
Chất tạo ngọt có thể làm giảm khả năng kiểm soát mức tiêu thụ năng lượng, càng làm gia tăng rối loạn chuyển hóa. Nhiều người nghĩ rằng uống thức uống ăn kiêng nhiều lần một tuần vẫn tốt hơn nhiều so với uống một lần loại có đường, nên ăn uống thoải mái các sản phẩm sử dụng chất tạo ngọt thay thế đường như các loại thức uống, salad, bánh quy, sữa chua có chất tạo ngọt.
Các chất tạo ngọt nhân tạo thường được xem là một chất thay thế an toàn cho đường, nhưng trái lại nhiều bằng chứng trên thực tế cho thấy việc sử dụng quá mức lại liên quan đến nguy cơ cao mắc hội chứng chuyển hóa trong đó có đái tháo đường type 2.