Thức ăn bổ sung phải là các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và đủ về mặt số lượng để có thể tiếp tục phát triển.
THỜI ĐIỂM TRẺ ĂN BỔ SUNG
Theo Viện Dinh dưỡng quốc gia, từ khi tròn 6 tháng tuổi, sữa mẹ không thể đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. Do đó, cần cho trẻ ăn bổ sung ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi 6 trở đi có sự thiếu hụt giữa mức tổng năng lượng cần cho trẻ và mức năng lượng do sữa mẹ cung cấp. Trẻ càng lớn thì sự thiếu hụt này càng tăng. Vì vậy, sau 6 tháng tuổi là khoảng thời gian tốt để bắt đầu ăn bổ sung. Ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi giúp trẻ phát triển, hoạt động tốt và khỏe mạnh.
Từ 6-12 tháng tuổi, cần tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ vì sữa mẹ tiếp tục cung cấp hơn một nửa nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và từ 12-24 tháng tuổi, sữa mẹ cung cấp ít nhất ⅓ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. Ngoài ra, sữa mẹ còn tiếp tục cung cấp các yếu tố kháng khuẩn giúp bảo vệ trẻ khỏi mắc nhiều bệnh, mang lại sự gắn bó và gần gũi giúp bé phát triển tâm lý.
Sau 6 tháng tuổi, phần nhu cầu các chất dinh dưỡng không được cung cấp đầy đủ từ sữa mẹ cần được bù đắp bằng thức ăn bổ sung.
Ăn bổ sung được định nghĩa là cho ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ. Các thức ăn và chất lỏng thêm này được gọi là thức ăn bổ sung vì chúng bổ sung cho sữa mẹ, chứ không hoàn toàn thay thế được sữa mẹ để cung cấp đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ. Thức ăn bổ sung phải là các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và đủ về mặt số lượng để trẻ có thể tiếp tục phát triển. Ngoài ra, ở thời điểm này, hệ tiêu hóa của trẻ đủ để phát triển tiêu hóa hầu hết các loại thức ăn. Tuy nhiên, một số nguy cơ cũng thường xảy ra khi bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung như trẻ không nhận được đủ các chất dinh dưỡng từ thức ăn bổ sung để đáp ứng nhu cầu của trẻ có thể dẫn tới suy dinh dưỡng và thiếu vi chất như dẫn đến còi xương do calci, thiếu máu do thiếu sắt… Ngoài ra trong các bữa ăn bổ sung của trẻ còn sử dụng các loại gia vị mặn như muối ăn, nước chấm.
Vì vậy bữa ăn bổ sung không chỉ cần đảm bảo tính đa dạng, cung cấp đủ các chất dinh dưỡng mà còn cần chú ý đến việc sử dụng các gia vị mặn hợp lý. Một chế độ ăn thiếu hoặc thừa muối (natri) đều ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ.
SỬ DỤNG MUỐI ĐÚNG CÁCH
Natri và Clo, là thành phần chủ yếu của muối, là hai nguyên tố có vai trò quan trọng trong cân bằng thể dịch trong cơ thể, sự tồn tại và hoạt động bình thường của tất cả các tế bào, hoạt động chức năng của tất cả các cơ quan và bộ phận trong cơ thể. Điều này có nghĩa rằng dù là trẻ mới sinh hay lớn lên đều cần muối. Tuy nhiên, tùy vào từng độ tuổi mà lượng muối khác nhau.
Ở trẻ mới ăn dặm, bé hoàn toàn chưa biết phân biệt mặn nhạt là gì. Khẩu vị của bé hoàn toàn phụ thuộc vào khẩu vị của người lớn. Các bà mẹ thường có thói quen nếm thức ăn cho trẻ và cứ nghĩ rằng trẻ em cũng giống mình, phải vừa miệng thì trẻ mới ăn ngon. Tuy nhiên, quan niệm này tiềm ẩn nguy cơ lâu dài cho sức khỏe của trẻ nhỏ.
Việc cho muối vào bột/ cháo của trẻ có thể gây ảnh hưởng đến thận. Chức năng thận của trẻ dưới 12 tháng tuổi rất non nớt và việc mẹ mẹ nêm quá nhiều muối/ mắm khi nấu bột/ cháo sẽ tập cho bé thói quen ăn nhiều muối khi trẻ hơn, thận phải làm việc nhiều, lâu dài sẽ đưa đến tổn hại cho thận. Hậu quả là trẻ sẽ phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp, tim mạch trong tương lai… Ngoài ra, cũng có những bằng chứng cho thấy ăn nhiều muối trong giai đoạn ăn dặm gây tổn thương não bộ.
Ngoài sữa thì ngũ cốc, hoa quả, thịt gia cầm, cá, trứng, rau tươi trong khẩu phần bổ sung đều có 1 lượng natri nhất định hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu natri của cơ thể trong 6-12 tháng.
Muối cần được tiêu thụ hằng ngày nhưng chỉ cần một lượng rất ít. Nếu tính cả lượng muối có trong nước mắm, nước chấm các loại, bột canh, hạt nêm và thực phẩm thì cơ thể trẻ 1-2 tuổi chỉ cần 2,3g/ ngày. Trong chế biến bữa ăn bổ sung cho trẻ 1-2 tuổi có thể sử dụng những gia vị mặn chứa natri nhưng với số lượng hợp lý vì một phần nhu cầu natri của trẻ đã được cung cấp từ các thực phẩm tự nhiên và thực phẩm chế biến sẵn.
MỘT SỐ LƯU Ý KHÁC KHI CHẾ BIẾN BỘT/ CHÁO ĂN DẶM CỦA TRẺ
Khi mẹ nêm bột/ cháo của trẻ thấy vừa miệng mẹ có nghĩa là bột/ cháo đó mặn so với trẻ. Vì vậy mẹ nên nêm lượng nước mắm vừa phải, ăn thấy nhạt một chút là trẻ vừa.
Có thể cho một lượng phô mai phù hợp vào bát bột/ cháo của trẻ thay thế cho nước mắm/ muối. Vì phô mai cũng có vị mặn. Nên cho phô mai vào bát của trẻ sau khi cho dầu ăn. Như vậy bát bột/ cháo của trẻ cũng sẽ thơm ngon, ngậy và không quá nhạt.
Trong cơ thể, natri đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì áp lực thẩm thấu, giữ cho cân bằng lượng nước bên trong, ngoài tế bào và trong lòng mạch máu. Ngoài ra, muối còn có vai trò trong việc duy trì điện tế bào, dẫn truyền xung thần kinh, đảm bảo thăng bằng kiềm an toàn. Nồng độ natri trong cơ thể được giữ cân bằng nhờ vào hoạt động của hệ thần kinh, nội tiết, tiết niệu và tiêu hóa. Vì thế tình trạng thiếu natri rất hiếm gặp ở trẻ em bình thường. Tình trạng natri trong máu thấp chỉ có thể xảy ra ở những trẻ bị mất quá nhiều natri do tiêu chảy, nôn… mà không được bù nước và muối hợp lý. Nếu bị thiếu muối ít, cơ thể sẽ tự thích ứng bằng cách làm giảm đào thải natri qua nước tiểu và mồ hôi. Cơ thể cũng sẽ có cảm giác thèm ăn mặn hơn nên sẽ sớm có được lượng muối cần thiết cho cơ thể.
Nêm gia vị mặn hợp lý vào bột/ cháo rất quan trọng đối với sức khỏe của trẻ. Đối với trẻ từ khi mới ăn dặm cho đến 12 tháng mẹ không nhất thiết phải thêm gia vị mặn vào bột/ cháo của trẻ. Từ khi bé được 1-2 tuổi, mẹ nên nêm nhạt hơn so với cảm nhận vị mặn của người lớn vì bé chỉ cần 2,3g muối/ ngày. Như vậy sẽ tránh được thói quen ăn mặn sau này, phòng ngừa tăng huyết áp và các bệnh tim mạch cho trẻ trong tương lai.