Sử dụng thực phẩm quá giàu đạm, không cho trẻ ăn rau xanh, chế biến món ăn thiếu dầu mỡ… là những sai lầm cần tránh thực hiện khi ăn bữa bổ sung cho trẻ.
Theo khuyến nghị dinh dưỡng trong 1000 ngày vàng của Viện Dinh Dưỡng, ăn bổ sung nghĩa là cho ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ. Các thức ăn và chất lỏng thêm này được gọi là thực phẩm bổ sung vì chúng bổ sung cho sữa mẹ, chứ không hoàn toàn thay thế được sữa mẹ để cung cấp chất dinh dưỡng. Thức ăn bổ sung phải là các thực phẩm giàu dinh dưỡng và đủ về mặt số lượng để trẻ có thể tiếp tục phát triển. Sau đây là một số sai lầm thường gặp:
ĂN CÀNG NHIỀU CHẤT BÉO CÀNG TỐT
Theo tháp dinh dưỡng được xây dựng bởi Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, mỗi bữa ăn của trẻ cần đủ 4 nhóm: đường bột (chủ yếu từ các loại ngũ cốc), chất béo, chất đạm và vitamin - khoáng chất. Trong đó, chất béo (bao gồm dầu thực vật và mỡ động vật) thuộc nhóm cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động và duy trì sự sống.
Cũng theo Viện dinh dưỡng, chất béo là nguồn dự trữ năng lượng quan trọng, tham gia vào cấu trúc của tất cả các mô và màng tế bào, giúp hình thành mô mỡ có chức năng điều hòa thân nhiệt. Chất béo còn tham gia vào nhiều phản ứng sinh hóa của cơ thể người và là thành phần để tạo ra testosterone, estrogen (hormone giới tính), acid mật, là màng lọc của các tế bào. Chất béo trong dầu ăn là trung gian chuyên chở các phần tử dinh dưỡng, đồng thời đóng vai trò cung cấp dung môi hòa tan các vitamin A, D, E, K… giúp ruột hấp thụ các vitamin này. Vì thế, chất béo đặc biệt cần thiết cho sự phát triển của trẻ trong mọi giai đoạn từ bào thai, ăn dặm cho tới 8 tuổi, trẻ càng nhỏ thì nhu cầu về chất béo càng cao.
Thực tế nhiều cha mẹ có quan niệm sai lầm rằng cho trẻ ăn bổ sung càng nhiều chất, càng giàu đạm giúp trẻ phát triển càng tốt. Sai lầm chủ yếu là cho trẻ ăn dưới dạng nước thịt (chỉ cho ăn nước, không dùng cái, sợ trẻ hóc), nước xương hầm… Không biết sử dụng nguồn chất đạm dồi dào khác ngoài thịt, cá như ăn trứng sợ trẻ đầy bụng, tôm cua sợ trẻ ho và ỉa chảy. Không biết dùng các loại đậu, đỗ, lạc, vừng là nguồn đạm thực vật tuy giá rẻ nhưng cũng rất tốt.
ÍT DÙNG DẦU MỠ TRONG BỮA ĂN CỦA TRẺ
Ít sử dụng dầu mỡ trong bữa ăn của trẻ vì cho rằng dầu mỡ khó tiêu hóa, gây ỉa chảy là một sai lầm phổ biến, trong khi dầu mỡ lại rất cần cho trẻ ở giai đoạn này. Dầu ăn cho bé ăn dặm ở đây có thể bao gồm cả dầu thực vật hoặc dầu cá được xếp vào nhóm thực phẩm cung cấp chất béo cần thiết cho cơ thể cùng với những sản phẩm khác như bơ, pho mát… Dầu ăn cũng thuộc nhóm chất dinh dưỡng quan trọng, đóng vai trò chính trong việc cung cấp năng lượng cho trẻ, giúp hình thành các mô mỡ có chức năng điều hòa thân nhiệt, đồng thời giúp cho quá trình hấp thụ một số vitamin quan trọng đối với cơ thể được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng. Với những công dụng đó dầu ăn không thể bỏ sót trong khẩu phần ăn của trẻ.
1g dầu cung cấp 9kcal, cho nên dầu ăn không thể thiếu trong bữa ăn của trẻ. Nếu trẻ dưới 6 tháng thì khi đó trẻ đang bú mẹ hoàn toàn và chất béo trong sữa mẹ chiếm 50% năng lượng. Từ khi trẻ bắt đầu ăn dặm thì chất lượng chất béo trong khẩu phần ăn của trẻ cũng phải đảm bảo 40%-45% và dầu ăn cho bé ăn dặm 6 tháng tuổi cần được bổ sung khá cao. Nhưng đối với những trẻ dưới 1 tuổi thì chất béo tổng thể trong khẩu phần ăn cung cấp khoảng 30-35% năng lượng.
Trẻ ở những năm đầu đời phát triển nhanh cả về thể chất và tinh thần, nên thiếu hụt chất chất béo trong khẩu phần ăn hằng ngày có thể ảnh hưởng đển chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là cơ quan thần kinh.
KHÔNG CHO TRẺ ĂN CÁC LOẠI RAU XANH
Khi chế biến đồ ăn dặm, thường các bà mẹ chỉ dùng nước luộc rau, ngay cả các loại củ như khoai tây, cà rốt cũng chỉ lấy nước ninh để quấy bột cho trẻ. Một số bà mẹ quan niệm sai lầm rằng trẻ không được ăn rau, và ăn rau dễ rối loạn tiêu hóa.
Trên thực tế, rau củ là một trong những loại thực phẩm tốt, tươi ngon và lành mạnh nhất. Chúng chứa nhiều chất xơ giúp cho hệ tiêu hóa của trẻ khỏe mạnh hơn, ngăn ngừa táo bón, đồng thời giúp cho hệ tim mạch phát triển tốt hơn. Thêm nữa chúng còn ngăn ngừa nguy cơ béo phì, cung cấp nước và khoáng chất cần thiết như vitamin A, C, kali, sắt, kẽm.
Nhưng khi các bạn cho trẻ ăn rau, ngoài những lo ngại về nguồn gốc xuất xứ, độ tươi ngon, để chọn các loại rau củ cho bé ăn dặm tốt, nhiều ba mẹ còn băn khoăn về nitrat - hợp chất mà một số loại rau hấp thụ từ đất. Nếu hấp thụ quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng methemoglobin huyết, khiến da trẻ có màu xanh lam ở vị trí lòng bàn tay, bàn chân và miệng, trẻ có thể bị mệt kèm theo khó thở. Nếu bạn nhận thấy trẻ có các triệu chứng trên, cần phải đưa trẻ đi khám ngay ở các trung tâm y tế chuyên khoa. Một vài loại rau củ có hàm lượng nitrat tương đối cao là cà rốt, rau bina, củ dền…
Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc bạn phải tránh các loại rau củ cho trẻ trong giai đoạn ăn dặm. Bởi một nghiên cứu công bố năm 2005 cho thấy lượng nitrat cao từ rau củ chủ yếu gây hại cho sức khỏe của trẻ từ 3 tháng tuổi trở xuống, giai đoạn mà trẻ chỉ bú sữa mẹ. Do đó, mẹ có thể yên tâm chọn các loại rau củ cho bé ăn dặm miễn rằng chúng tươi, sạch và rõ nguồn gốc xuất xứ, chế biến.
CHO TRẺ ĂN CƠM QUÁ SỚM
Cho trẻ ăn cơm quá sớm khi chưa có răng: Các bà mẹ cho rằng ăn cơm sớm sẽ giúp trẻ cứng cáp, nhanh chóng biết đi. Thực tế nếu cho trẻ ăn cơm quá sớm, trẻ chỉ nuốt chửng với nước rau luộc hoặc nước canh vì vậy bộ máy tiêu hóa phải làm việc quá sức. Khi ăn cơm thường là ăn với gia đình, trẻ ít được quan tâm, ưu tiên thức ăn nên bữa ăn của trẻ không được đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng.
Ngoài ra, một nguồn dinh dưỡng quan trọng cho trẻ trong 2 năm đầu đời vẫn là sữa mẹ. Nếu trẻ ăn cơm sớm, lượng sữa cần thiết được hấp thu sẽ giảm đi vì trẻ luôn cảm thấy đầy bụng, không muốn uống sữa. Như vậy việc cho trẻ ăn cơm sớm khi được 16 tháng tuổi có thể tiềm ẩn nguy cơ khiến bé suy dinh dưỡng.
Cho trẻ ăn cơm sớm trước khi trẻ có thể nhai và tiêu hóa cơm được là một trong những nguy cơ tiềm ẩn gây suy dinh dưỡng ở trẻ ở nước ta.
Theo các chuyên gia của Viện dinh dưỡng, trẻ tròn 6 tháng tuổi, khi con bạn bắt đầu bổ sung, hệ tiêu hóa của bé cần có thời gian để thích nghi với thức ăn, trẻ cần học cách nhai, đảo thức ăn trong miệng và nuốt thức ăn. Vì vậy bạn nên tập ăn cho trẻ bằng cách cho trẻ ăn mỗi lần 2-3 thìa nhỏ/ lần x 2 lần/ ngày. Thời gian tập cho trẻ ăn thường trong vòng vài ba ngày (không nên kéo dài thời gian tập ăn quá 1 lần). Sau đó tăng dần lượng thức ăn để phù hợp với độ tuổi của bé cũng như tăng dần độ đậm đặc của thức ăn.
Mỗi bữa ăn cho trẻ ăn từ ít đến nhiều, số lượng thức ăn tăng dần khi trẻ lớn lên. Tăng dần số lượng trong bữa ăn hằng ngày của trẻ theo tuổi. Ăn đa dạng các loại thực phẩm, thay đổi và kết hợp với nhiều thức ăn khác nhau giúp trẻ ăn ngon miệng, chú ý đến khẩu vị của trẻ khi nấu thức ăn.
Đảm bảo thức ăn của bé giàu dinh dưỡng, đủ chất, mỗi bữa của trẻ phải có đủ 4 nhóm thức ăn gồm nhóm tinh bột, chất đạm, chất béo, vitamin và khoáng chất. Đảm bảo vệ sinh ăn uống và cách chế biến thức ăn cho trẻ. Sử dụng thực phẩm tươi và nước sạch khi nấu cho trẻ. Cần rửa sạch dụng cụ, tay sạch trước khi chế biến thức ăn và trước khi cho trẻ ăn. Sử dụng đồ sạch để đựng thức ăn cho trẻ.