Giãn tĩnh mạch chân là hiện tượng hệ thống tĩnh mạch khu vực chân bị suy giảm chức năng dẫn máu về tim, gây ra hiện tượng ứ đọng máu và biến dạng các mô xung quanh chân.
Giãn tĩnh mạch có thể xảy ra ở các vùng cánh tay hoặc bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, tuy nhiên đại đa số trường hợp bị giãn tĩnh mạch ở chân. Nếu không điều trị kịp thời thì bệnh sẽ diễn biến phức tạp và làm giảm lưu lượng máu ở động mạch đến các chi dưới, lâu dần có thể gây chảy máu, không lành các vết loét, đặc biệt là hoại tử.
NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GIÃN TĨNH MẠCH CHÂN
Nguyên nhân và những yếu tố làm tăng nguy cơ suy giãn tĩnh mạch có thể kể đến như:
-Suy giãn tĩnh mạch tiên phát.
-Giãn tĩnh mạch vô căn: Do bất thường về mặt di truyền hoặc huyết động của hệ tĩnh mạch nông gây ra.
-Suy giãn tĩnh mạch sâu tiên phát: Do bất thường về giải phẫu, bờ tự do của van quá dài, gây suy van hoặc do giãn vòng van.
-Bệnh lý tĩnh mạch hậu huyết khối.
-Di sản tĩnh mạch: Thiếu hụt hoặc thiếu sản van tĩnh mạch (sâu hoặc nông) bẩm sinh, dị sản tĩnh mạch có kèm theo hoặc không rò động mạch - tĩnh mạch.
-Bị chèn ép: Khối u, hội chứng Cockett.
CÁC YẾU TỐ LÀM TĂNG NGUY CƠ SUY GIÃN TĨNH MẠCH
-Do tuổi tác: Giãn tĩnh mạch là căn bệnh dễ gặp ở người già. Nguyên nhân là do khi bị lão hóa, các van tĩnh mạch sẽ hao mòn, làm giảm khả năng bơm máu về tim. Vì vậy, càng lớn tuổi thì nguy cơ mắc suy giãn tĩnh mạch càng cao.
-Do giới tính: Phụ nữ là đối tượng có khả năng cao mắc phải căn bệnh này do sự thay đổi nội tiết tố. Giai đoạn tiền mãn kinh và giai đoạn mãn kinh là hai thời điểm rủi ro nhất. Điều này cho thấy phụ nữ dễ mắc suy giãn tĩnh mạch.
-Ở thời kỳ mang thai: Khi mang thai lượng máu trong cơ thể phụ nữ sẽ nhiều hơn bình thường, vì cần cung cấp máu cho cả thai nhi, lúc này van ở các tĩnh mạch sẽ phải hoạt động nhiều hơn, vì thế có khả năng gây suy giãn tĩnh mạch ở chân.
-Do tiền sử gia đình: Nếu thành viên trong gia đình mắc bệnh suy giãn tĩnh mạch, thì bạn sẽ có nguy cơ cao mắc bệnh đó do di truyền.
-Do béo phì: Do các tĩnh mạch chân phải chịu trọng lực của toàn bộ cơ thể nên nếu thừa cân sẽ gây áp lực nhiều hơn, dễ làm giãn tĩnh mạch ở chân. Nên nếu bị thừa cân, béo phì sẽ có nguy cơ cao suy giãn tĩnh mạch.
-Do tính chất công việc phải đứng hoặc ngồi lâu 1 chỗ: Khi giữ nguyên trong tư thế một thời gian sẽ khiến máu bị tắc nghẽn lưu thông, nên cũng dễ mắc phải suy giãn tĩnh mạch.
BIỂU HIỆN GIÃN TĨNH MẠCH CHÂN THƯỜNG GẶP
Các triệu chứng giãn tĩnh mạch chân thường sẽ tăng theo cấp độ từ bệnh nhẹ cho đến bệnh nặng.
Khi bệnh nhân mắc bệnh giãn tĩnh mạch chân giai đoạn nhẹ, sẽ bắt gặp những triệu chứng không rõ ràng và tức thì như nhức mỏi, đau chân, cảm giác nặng nề ở chân, tê và phù chân, chuột rút về đêm, nóng chân…
Vì những triệu chứng suy giãn tĩnh mạch chân ở trên rất nhẹ và diễn ra trong thời gian ngắn, nên người bệnh thường chủ quan không để ý đến. Tuy nhiên, đến một thời điểm bệnh trở nặng thì các cơn đau sẽ kéo dài và để lại hệ lụy nghiêm trọng hơn như:
- Phù chân: Chân có thể bị phù khu vực mắt cá chân hoặc bàn chân, khi mang giày dép sẽ cảm giác chật hơn thường ngày.
- Chàm da: Màu da bị thay đổi thành xanh hoặc tím đậm, do máu đã ứ đọng quá lâu tại các tĩnh mạch trên.
- Nặng nề, đau nhức chân: Khi bước đi người bệnh cảm giác bị kéo lê và nhìn thấy được các đường xoắn ngoằn ngoèo trên chân.
- Loét da cẳng chân: Nếu bị nhẹ thì da có thể tự lành, tuy nhiên khi bệnh chuyển biến phức tạp thì da sẽ không kịp tự lành nữa, từ đó làm tăng nguy cơ bị nhiễm trùng da.
Các triệu chứng giãn tĩnh mạch chân thường rõ hơn vào ban đêm, đặc biệt là sau khi đứng hoặc ngồi một chỗ quá lâu.
Giãn tĩnh mạch chân có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn khi bị biến chứng như loét da, huyết khối, thuyên tắc động mạch - tĩnh mạch. Vì thế, khi có những biểu hiện trên bạn nên nắm rõ tình trạng bệnh lý của bản thân để điều trị kịp thời.
LỜI KHUYÊN THẦY THUỐC
Theo thống kê có đến 77,6% người bệnh không biết bản thân mắc bệnh giãn tĩnh mạch. Điều này khiến nhiều người phát hiện bệnh muộn và chữa trị khi bệnh đã có những triệu chứng nặng nề. Vì vậy, khi có những biểu hiện suy giãn tĩnh mạch cần tới ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.
Từng trường hợp mà bác sĩ có những chỉ định phù hợp.